Hội chứng Sợ nói chuyện trước đám đông (Glossophobia)

Glossophobia – hội chứng sợ nói khi đứng trước đám đông có tên gọi xuất phát từ tiếng Hy Lạp, glossa có nghĩa là lưỡi và phobos là sợ hãi. Hội chứng sợ nói chuyện trước đám đông (glossophobia) là một dạng rối loạn lo âu xã hội, được định nghĩa là nỗi sợ hãi, lo lắng căng thẳng khi phải nói trước một nhóm người [1]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, glossophobia ảnh hưởng đến khoảng 75% dân số thế giới [2]. Những người mắc hội chứng này thường có các triệu chứng như tim đập nhanh, lòng bàn tay toát mồ hôi, run rẩy, khô miệng và khó thở [3].

Theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Mỹ (The National Institute of Mental Health), được biết đến với cái tên NIMH, hội chứng sợ nói chuyện trước đám đông hay glossophobia là một dạng phổ biến của chứng rối loạn lo âu xã hội, ảnh hưởng đến khoảng 7-9% người trưởng thành ở Mỹ [8]. Hội chứng này có thể gây ra nhiều trở ngại đáng kể cho bệnh nhân trong cuộc sống và công việc. Theo NIMH, những người mắc glossophobia thường cảm thấy cực kỳ lo lắng, sợ hãi khi phải nói chuyện hoặc thuyết trình trước nhóm người, ngay cả khi đó là nhóm nhỏ. Họ lo sợ bị đánh giá tiêu cực, chỉ trích và e ngại có thể nói sai, trở nên xấu hổ [8]. Những triệu chứng thường gặp bao gồm: tăng nhịp tim, run rẩy, khó thở, khó nuốt, ra mồ hôi, đau bụng, buồn nôn, và đôi khi có thể dẫn đến hoảng loạn [9]. Vì những triệu chứng này, người mắc có xu hướng tránh những tình huống cần phải nói trước công chúng, ảnh hưởng xấu đến công việc, học tập và quan hệ cá nhân [8].

(DALL-E 3 tạo)


Độ phổ biến của glossophobia

Trong môi trường nơi giao tiếp công cộng và kỹ năng giao tiếp được đánh giá cao, glossophobia có thể trở nên phổ biến hơn. Các ngành nghề yêu cầu nhiều buổi thuyết trình, diễn giả, hay thậm chí là giao tiếp công cộng như giáo viên, doanh nhân, hay chính trị gia có thể là những người thường xuyên phải đối mặt với thách thức này.

Nhiều người nổi tiếng và có tên tuổi lớn cũng đã trải qua vấn đề về glossophobia, mặc dù có thể người hâm mộ thường không biết vì họ thường xuyên xuất hiện trước công chúng. Dưới đây là một số ví dụ:

  • Barbara Walters: Nữ nhiếp ảnh gia và nhà báo nổi tiếng, cựu người dẫn chương trình "The View", đã từng trải qua vấn đề về sợ nói trước đám đông.
  • Adele: Ca sĩ nổi tiếng Adele từng thừa nhận rằng cô cảm thấy sợ hãi khi phải biểu diễn trước đám đông và có những lúc phải chiến đấu với glossophobia.
  • Nicole Kidman: Nữ diễn viên hàng đầu Hollywood, Nicole Kidman, đã từng mô tả cảm giác căng thẳng và sợ hãi khi phải nói trước đám đông.
  • Warren Buffett: Nhà đầu tư tỷ phú và doanh nhân nổi tiếng thế giới, Warren Buffett, từng mô tả bản thân mình là một người không thoải mái khi phải nói trước đám đông.
  • Jennifer Lawrence: Nữ diễn viên có giải Oscar, Jennifer Lawrence, đã thừa nhận cô cảm thấy sợ hãi khi phải tham gia các sự kiện lớn và nói trước đám đông.
  • Elton John: Ca sĩ và nhạc sĩ huyền thoại Elton John, mặc dù là một biểu tượng giải trí, nhưng ông từng trải qua cảm giác sợ hãi khi phải biểu diễn trước đám đông lớn.
  • Emma Stone: Nữ diễn viên đoạt giải Oscar, Emma Stone, đã thừa nhận rằng cô đã trải qua những trải nghiệm khó khăn khi phải nói trước công chúng và đã đối mặt với sự tự ti.
  • Thomas Jefferson: Một trong những chính trị gia lớn của nước Mỹ, người ký tuyên ngôn độc lập Thomas Jefferson, được mô tả là một người rất sợ hãi khi phải nói trước đám đông.
  • Mahatma Gandhi: Nhà lãnh đạo tinh thần và chiến tranh phi bạo lực nổi tiếng, Gandhi cũng gặp khó khăn khi phải nói trước đám đông và đã làm việc để vượt qua nỗi sợ hãi này.
  • J.K. Rowling: Nữ nhà văn nổi tiếng với loạt sách "Harry Potter", J.K. Rowling, từng trải qua giai đoạn sợ hãi khi phải thể hiện ý kiến trước công chúng.

*Có nhiều yếu tố thông tin chi tiết về glossophobia của người nổi tiếng Việt Nam thường không được công bố rộng rãi như trong trường hợp của các ngôi sao quốc tế.

Biểu hiện của glossophobia là gì?

Một số người cảm thấy không thoải mái và có cảm giác hơi hồi hộp, lo lắng khi nghĩ tới việc phát biểu trước đám đông. Với một số người khác lại cảm thấy tồi tệ hơn bở sự hoảng loạn và sợ hãi trong tâm trí khi phải giao tiếp trước nhiều người. Khi đã có trong mình nỗi sợ giao tiếp mà phải đối mặt với việc phải nói chuyện cùng người lạ nay phát biểu trước đám đông, người mắc chứng glossophobia sẽ có những biểu hiện dễ nhận thấy như tay chân run rẩy, đổ mồ hôi, giọng nói lắp bắp, hụt hơi đứt quãng, tim đập nhanh, nóng bừng mặt, khô miệng, cảm giác bất an, các cơ căng cứng, choáng váng hoặc thậm chí là ngất xỉu.

Theo NIMH (2022), khi phải biểu diễn trước mặt hoặc ở gần người khác, những người mắc chứng sợ nói chuyện trước đám đông có thể:
  • Đỏ mặt, đổ mồ hôi hoặc run rẩy.
  • Có nhịp tim nhanh.
  • Cảm thấy "tâm trí trống rỗng" của họ, hoặc cảm thấy đau bụng.
  • Có một tư thế cơ thể cứng nhắc, hoặc nói chuyện với một giọng nói quá nhẹ nhàng.
  • Cảm thấy khó khăn khi giao tiếp bằng mắt, ở gần những người họ không biết hoặc nói chuyện với mọi người trong các tình huống xã hội, ngay cả khi họ muốn.
  • Cảm thấy tự ý thức hoặc sợ rằng mọi người sẽ đánh giá họ một cách tiêu cực.
  • Tránh những nơi có người khác.
Chính vì thế mà họ chọn việc né tránh các tình huống phải giao tiếp để bản thân cảm thấy an toàn và thoải mái. Từ đó hình thành thói quen luôn từ chối đi đến nơi đông người, không muốn hẹn hò hay gặp gỡ người lạ. Những người ngại giao tiếp thường có xu hướng chỉ mở lòng với những đối tượng thân thiết, tự đặt mình trong vòng tròn an toàn và tránh các giao tiếp mở rộng với xã hội bên ngoài. Với những đứa trẻ ngại giao tiếp, có thể biểu hiện như sợ đến trường, sợ bị giáo viên gọi tên lên bảng trả lời câu hỏi…

Nguyên nhân gây ra glossophobia đến từ đâu?

Một số nghiên cứu chỉ ra rằng có yếu tố di truyền liên quan, glossophobia hay gặp ở những người có tiền sử gia đình mắc các chứng rối loạn tâm thần [4]. Có một số nghiên cứu đã tập trung vào việc xác định mối quan hệ giữa glossophobia và tiền sử gia đình mắc các chứng rối loạn tâm thần. Nếu một người có gia đình có tiền sử về các vấn đề tâm thần như lo lắng, trầm cảm, hoặc rối loạn tâm thần khác, khả năng cao họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ cao hơn về việc phát triển glossophobia. Mặc dù các cơ chế chính xác của sự kế thừa vẫn đang được nghiên cứu, nhưng rõ ràng rằng yếu tố di truyền có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của các rối loạn lo lắng, bao gồm cả glossophobia. Các gen có thể đóng vai trò trong việc quy định cách não bộ xử lý và đáp ứng với tình trạng lo lắng [4]. 

(DALL-E 3 tạo)


Hầu hết các biểu hiện của glossophobia xảy ra do sự gia tăng adrenalin trong cơ thể, khi con người cảm thấy sợ hãi, tức giận... Adrenalin sẽ làm nhịp tim đập nhanh hơn, và cơ thể sẽ bắt đầu những phản ứng phòng vệ tự nhiên để chống lại nguy hiểm. Và vì thế, khi học được cách giữ cho cảm xúc tốt hơn, tinh thần sẽ trở nên ổn định và kiểm soát được adrenalin dư thừa, khi đó sẽ cải thiện được tình trạng sợ hãi khi giao tiếp trước đám đông một cách hiệu quả.

Ngoài ra, những trải nghiệm tiêu cực khi còn nhỏ như bị bắt nạt, chế giễu khi nói trước đám đông cũng có thể dẫn đến hội chứng này [5]. Những trải nghiệm tiêu cực này có thể làm tăng cường lo lắng và sợ hãi khi phải đối mặt với tình huống nói trước đám đông trong tương lai. Cảm giác bị đánh giá, phê phán, hoặc không được chấp nhận có thể tạo ra một loại sợ hãi xã hội, và điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng tự tin và thoải mái khi nói trước đám đông. Hơn nữa, những trải nghiệm tiêu cực này có thể gắn kết sâu sắc trong tâm trí và tạo ra những mô hình hành vi và tư duy tiêu cực về việc thể hiện bản thân. Điều này có thể trở thành một phần quan trọng của sự phát triển của glossophobia ở người lớn.

Một số người có xu hướng tự ti, thiếu tự tin về ngoại hình, giọng nói hay khả năng ứng biến cũng dễ mắc phải.Những người có tự ti về vẻ ngoại hình, cảm thấy mình không hấp dẫn, hoặc xấu xí thường lo lắng về việc bị đánh giá tiêu cực vì vẻ ngoại hình của họ. Những người tự ti về giọng nói, có thể do giọng khàn, nói ngọng, nói lắp, cũng sợ bị chế ngự và chê cười khi phát biểu. Khi thiếu tự tin về khả năng ứng biến, họ lo sợ không thể trả lời hoặc giải thích được các câu hỏi, làm cho họ mất đi sự tự tin và uy tín cá nhân. Sự tự ti và thiếu tự tin ngày càng lớn có thể dẫn đến tình trạng tránh giao tiếp, đặc biệt là trong những tình huống công khai như nói trước đám đông. Đây là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra glossophobia. Mặt khác, việc liên tục tránh né và không dám đối mặt với những tình huống này có thể khiến người đóng cửa mình trong một vòng luẩn quẩn tiêu cực, làm suy giảm khả năng ứng biến thực tế và làm tăng thêm mức độ trầm trọng của hội chứng.

Ngoài ra, còn có nhiều yếu tố khác như môi trường, kinh nghiệm cá nhân, và sự ảnh hưởng của xã hội có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển glossophobia. Điều này làm cho việc phân tích sự xuất hiện của glossophobia trở nên phức tạp và đa chiều hơn.

Điều trị glossophobia có khó không?

Để điều trị glossophobia, các nhà tâm lý học khuyên người bệnh nên tránh lảng tránh những tình huống phải nói trước đám đông. Thay vào đó, họ cần tập dần vượt qua nỗi sợ thông qua liệu pháp phơi nhiễm - dần dần đối mặt với đám đông để quen dần [6]. Liệu pháp phơi nhiễm giúp bệnh nhân dần thích ứng với việc nói trước đám đông, còn liệu pháp nhận thức hành vi giải quyết các suy nghĩ tiêu cực. Tuy nhiên, cũng có khoảng 30% bệnh nhân bỏ dở quá trình điều trị do không đủ kiên nhẫn đối mặt với nỗi sợ hãi khi phơi nhiễm [10]. Do đó, sự động viên, thuyết phục bệnh nhân tiếp tục điều trị là rất quan trọng.

Ngoài ra, liệu pháp nhận thức hành vi giúp xác định những suy nghĩ tiêu cực, thay thế bằng suy nghĩ tích cực cũng hiệu quả [7]. Thực hành thư giãn, hít thở sâu cũng giảm bớt căng thẳng khi phải nói. Sau 12 tuần điều trị bằng liệu pháp nhận thức hành vi kết hợp với liệu pháp phơi nhiễm, 83% bệnh nhân glossophobia có cải thiện triệu chứng đáng kể [10].


Theo Toản Trần
tamlyhoc.org


Tham khảo

[1] Bourhis, J., Allen, M., & Bauman, I. (2006). Communication apprehension: Issues to consider in the classroom.

[2] World Health Organization. (2021). Social anxiety disorder.

[3] Furmark, T. (2002). Social phobia: overview of community surveys.

[4] Stein, M. B., & Stein, D. J. (2008). Social anxiety disorder. The Lancet, 371(9618), 1115-1125.

[5] Rapee, R. M., & Spence, S. H. (2004). The etiology of social phobia: Empirical evidence and an initial model. Clinical psychology review, 24(7), 737-767.

[6] Wolpe, J. (1973). The practice of behavior therapy.

[7] Clark, D. M., & Wells, A. (1995). A cognitive model of social phobia. Social phobia: Diagnosis, assessment, and treatment, 41(68), 00022-3.

[8] National Institute of Mental Health. (2022). Social Anxiety Disorder: More Than Just Shyness. https://www.nimh.nih.gov/health/publications/social-anxiety-disorder-more-than-just-shyness

[9] National Institute of Mental Health. (2016). Social phobia. https://www.nimh.nih.gov/health/statistics/social-phobia

[10] Gould, R. A., Buckminster, S., Pollack, M. H., Otto, M. W., & Massachusetts, L. Y. (1997). Cognitive-behavioral and pharmacological treatment for social phobia: A meta-analysis. Clinical Psychology: Science and Practice, 4(4), 291-306.


Theo ##

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn
__________