Thời gian gần đây, các vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần của học sinh (HS) và thanh thiếu niên Việt Nam đang nhận được sự quan tâm đáng kể từ cộng đồng. Tỷ lệ HS gặp phải tình trạng căng thẳng, trầm cảm, lo âu và các rối loạn tâm lý khác đang gia tăng một cách báo động. Điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống mà còn làm giảm khả năng học tập và phát triển tối đa tiềm năng của các em. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng này là do HS thiếu các năng lực cần thiết để ứng phó hiệu quả với tình trạng căng thẳng.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc trang bị cho HS, đặc biệt là HS trung học phổ thông (THPT), các năng lực ứng phó với căng thẳng là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực này cho HS THPT vẫn còn khá hạn chế, nhất là tại các khu vực đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh. Xuất phát từ tình trạng thực tế trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu nhằm khảo sát thực trạng năng lực ứng phó với căng thẳng của HS THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Khái niệm năng lực ứng phó với căng thẳng của học sinh THPT
Trước tiên, chúng ta cần làm rõ khái niệm về năng lực ứng phó với căng thẳng của HS THPT. Dựa trên lý thuyết căng thẳng, ứng phó và các nghiên cứu có liên quan, chúng tôi đưa ra định nghĩa như sau:
"Năng lực ứng phó với căng thẳng của HS THPT là khả năng nhận diện tác nhân gây căng thẳng, lập kế hoạch ứng phó và thực hiện các giải pháp ứng phó với căng thẳng thể hiện thông qua các khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi ứng phó trong một số tình huống nhất định".
Từ định nghĩa này, ta có thể thấy năng lực ứng phó với căng thẳng của HS THPT có những đặc điểm sau:
Năng lực ứng phó với căng thẳng của HS THPT thể hiện qua hai phương diện: (1) ứng phó với vấn đề gây ra căng thẳng và (2) ứng phó với cảm xúc tiêu cực khi căng thẳng.
Ở mỗi phương diện, năng lực ứng phó của HS bao gồm khả năng: (1) nhận diện tác nhân gây căng thẳng, (2) lập kế hoạch ứng phó và (3) thực hiện các giải pháp ứng phó với căng thẳng. Trong đó:
- Lập kế hoạch ứng phó với căng thẳng là quá trình xác định các phương án giải tỏa căng thẳng phù hợp với tác nhân gây căng thẳng đã xác định và cách thức để thực hiện những phương án đó, hướng đến việc lựa chọn một hoặc nhiều phương án ứng phó tích cực để tiến hành thực hiện.
- Nhận diện tác nhân căng thẳng bao gồm việc xác định nguyên nhân, dấu hiệu tâm lý - thể lý và đánh giá mức độ ảnh hưởng của căng thẳng cũng như những yếu tố có tác động ngược lại căng thẳng.
Tác nhân căng thẳng của HS THPT thường xuất phát từ các hoạt động chính như học tập - hướng nghiệp (quá tải học tập, áp lực kỳ thi, khó khăn trong việc lựa chọn nghề nghiệp,...) và giao tiếp, thiết lập mối quan hệ (khó khăn trong giao tiếp, bị cô lập, mâu thuẫn với bạn bè/thầy cô/gia đình,...).
Năng lực ứng phó của HS THPT được biểu hiện qua ba khía cạnh: (1) nhận thức, (2) thái độ và (3) hành vi ứng phó.
- Khía cạnh nhận thức thể hiện mức độ hiểu biết, đánh giá và phân tích các nội dung cần có của thao tác ứng phó tương ứng.
- Khía cạnh thái độ phản ánh sự chủ động, tích cực và ý chí của HS trong quá trình ứng phó với căng thẳng.
- Khía cạnh hành vi bộc lộ khả năng thực hiện các phương pháp, kỹ thuật và vận dụng các nguồn lực để ứng phó hiệu quả với căng thẳng.
Năng lực ứng phó với căng thẳng của HS THPT được rèn luyện và biểu hiện thông qua các tình huống căng thẳng gây cụ thể của lứa tuổi như hoạt động học tập - hướng nghiệp, giao tiếp và thiết lập mối quan hệ với bạn bè, thầy cô và gia đình.
Khách thể và phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng thang đo PSS-10 trên mẫu
khác thể 586 HS tại 06 trường THPT trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, sàng lọc
ra những HS có biểu hiện căng thẳng từ vừa đến nặng. Sau đó, nghiên cứu thực trạng
NLUP với căng thẳng được thực hiện trên nhóm khách thể sau sàng lọc gồm 410 HS
THPT.
Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu
thực trạng NLUP với căng thẳng của HS THPT bao gồm:
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Sử
dụng thang đo NLUP với căng thẳng của HS THPT chúng tôi gọi tắt là thang đo
SCSH-45([1])
được xây dựng theo các tiêu chí biểu hiện cụ thể của các khía cạnh nhận thức
– thái độ và hành vi của NLUP với căng thẳng của HS THPT.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Thu thập
thông tin chi tiết từ HS tham gia nghiên cứu để hiểu rõ hơn về quan điểm, trải
nghiệm và suy nghĩ của HS THPT về NLUP với căng thẳng ở từng khía cạnh biểu hiện
nhận thức, thái độ và hành vi bổ sung và minh chứng kết quả khảo sát thực trạng
năng lực.
- Phương pháp bài tập tình huống: Được nghiên
cứu song song và làm minh chứng cho kết quả nghiên cứu của phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi. Hệ thống các bài tập tình huống được thiết kế dưới dạng bảng hỏi
trắc nghiệm với các phương án xử lý tình huống, gợi ý theo các mức độ từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện biểu hiện của NLUP với căng thẳng.
Việc đánh giá mức độ NLUP với căng thẳng
của HS THPT được xếp loại dựa trên điểm trung bình của thang đo SCSH-45:
- Mức độ thấp (đạt từ 1 đến 1.66 điểm): HS
THPT có thể chưa có hoặc đã có NLUP với căng thẳng. Song nhưng chưa biểu hiện
hoặc biểu hiện chỉ ở một vài tình huống nhất định trong khoảng thời gian dài,
thậm chí trong tình trạng phải nhiều vấn đề căng thẳng. Xét về tính hiệu quả, về
cơ bản HS đã biết cách ứng phó, nhưng không hiệu quả hoặc không thể ứng phó. Cần
có sự hỗ trợ từ người khác để có thể thực hiện ứng phó hiệu quả.
- Mức độ trung bình (đạt từ 1.67 đến
2.33 điểm): HS THPT đã có thể thực hiện thành thạo các thao tác để ứng phó với
căng thẳng trong những tình huống quen thuộc. Tuy nhiên, còn lúng túng hoặc thực
hiện ứng phó chưa hiệu quả với những tình huống gây căng thẳng có tính mới hoặc
nghiêm trọng hơn. Ở mức độ này, HS vẫn cần có sự hỗ trợ của gia đình, bạn bè, giáo
viên để khuyến khích và hướng dẫn trong quá trình ứng phó với một số tình huống
căng thẳng nhất định.
- Mức độ cao (từ 2.34 đến 3 điểm): HS
THPT hoàn toàn có NLUP với những căng thẳng trong các tình huống quen thuộc và
một số tình huống mới với các mức độ khác nhau. HS có thể đề ra những phương
pháp và thực hiện ứng phó căng thẳng trong học tập và trong các mối quan hệ
tương đối hiệu quả ở đa số tình huống. Đồng thời, không cần hoặc cần ít sự hỗ
trợ của gia đình, bạn bè, giáo viên trong quá trình ứng phó với căng thẳng.
Đánh giá chung
Chúng tôi áp dụng thang đo SCSH-45 được
xây dựng dựa trên các tiêu chí biểu hiện cụ thể của khía cạnh nhận thức, thái độ,
và hành vi liên quan đến NLUP với căng thẳng của HS THPT. Đồng thời, sử dụng hệ
thống bài tập tình huống được xây dựng dưới dạng bảng hỏi trắc nghiệm, cung cấp
các phương án xử lý tình huống với các mức độ biểu hiện của NLUP với căng thẳng,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện để xác định mức độ các biểu hiện cụ thể của NLUP
với căng thẳng của HS THPT.
Bảng 1. Thực trạng chung NLUP với căng thẳng của
HS THPT
Khía cạnh biểu
hiện |
N |
Thang đo
SCSH-45 |
Bài tập tình
huống |
||
ĐTB |
ĐLC |
ĐTB |
ĐLC |
||
Nhận thức |
410 |
2.13 |
0.339 |
2.13 |
0.621 |
Thái độ |
410 |
2.09 |
0.292 |
2.08 |
0.572 |
Hành vi |
410 |
1.99 |
0.205 |
2.04 |
0.562 |
ĐTB chung |
410 |
2.07 |
2.09 |
Xét trên thang đo SCSH-45, điểm trung
bình chung của cả 3 khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi là 2.07. Theo thang
điểm từ 1-3, điều này cho thấy mức độ biểu hiện chung của NLUP với căng thẳng của
HS THPT đang ở mức trung bình.
Xét từng khía cạnh, khía cạnh nhận thức
có điểm trung bình cao nhất (ĐTB=2.12), tiếp đến là khía cạnh thái độ
(ĐTB=2.09) và thấp nhất là khía cạnh hành vi (ĐTB=1.99). Điều này cho thấy HS
THPT đang có mức độ nhận thức tương đối tốt về căng thẳng và cách ứng phó; thái
độ ứng phó với căng thẳng của HS cũng tương đối tích cực; tuy nhiên về khía cạnh
hành vi, HS THPT vẫn còn hạn chế trong việc vận dụng các năng lực cụ thể để ứng
phó với căng thẳng trong thực tiễn.
Xét trên hệ thống bài tập tình huống, điểm
trung bình chung của cả 3 khía cạnh là 2,09, tương đương với kết quả trên thang
đo SCSH-45. Điều này cho thấy kết quả đánh giá thực trạng NLUP với căng thẳng của
HS THPT trên cả hai công cụ đều nhất quán.
Như vậy, có thể thấy thực trạng chung về
NLUP với căng thẳng của HS THPT đang ở mức trung bình. Cần có các giải pháp để
nâng cao, nhất là ở khía cạnh hành vi thực tiễn hay các thao tác thực hành năng
lực này ở HS.
Đánh giá từng khía cạnh biểu
hiện của năng lực
1. Đánh giá thực trạng năng lực trên khía cạnh nhận thức
Bảng 2. Thực trạng NLUP với căng thẳng trên
khía cạnh nhận thức
Các nội dung
nhận thức |
N |
ĐTB |
ĐLC |
Những tình huống gây căng thẳng |
410 |
2.13 |
0.557 |
Các tác nhân gây căng thẳng phổ biến |
410 |
2.13 |
0.532 |
Những biểu hiện và phản ứng của cơ thể |
410 |
2.14 |
0.544 |
Vai trò của ứng phó với căng thẳng |
410 |
2.12 |
0.531 |
Các phương pháp và kỹ thuật ứng phó với căng thẳng |
410 |
2.10 |
0.528 |
ĐTB chung |
410 |
2.13 |
Nhìn chung trong 5 nội dung nhận thức
thuộc về NLUP với căng thẳng, điểm trung bình chung là 2.13/3.00 điểm. Điều này
cho thấy các biểu hiện ở khía cạnh nhận thức của HS về NLUP với căng thẳng chưa
cao.
Các nội dung nhận thức có điểm trung
bình thấp là “Vai trò của ứng phó với căng thẳng” (ĐTB=2.12 điểm) và “Các
phương pháp và kỹ thuật ứng phó với căng thẳng” (ĐTB=2.10 điểm) và. Điều này
cho thấy bên cạnh việc xem nhẹ vai trò của việc ứng phó với căng thẳng (xem nhẹ
sự tự giác chủ động, ứng phó có kế hoạch thay vì ứng phó theo bản năng) thì HS
còn thiếu hiểu biết về các kỹ thuật cụ thể để ứng phó với căng thẳng. Trong bài
tập tình huống (tương ứng tình huống 2) nhằm đánh giá về tính hiệu quả của
phương pháp thiền, bên cạnh số lượng HS đánh giá cao về hiệu quả của phương
pháp này thì số lượng lớn 30.0% HS lựa chọn phương án “Thiền định không dễ
dàng. Khó mà loại bỏ những suy nghĩ về kì thi và nhiều việc khác, nhưng sau một
thời gian, có thể tập trung vào hơi thở và cảm thấy thư giãn hơn một chút”
hoặc thậm chí đánh giá thấp vai trò của thiền rằng “Cách này hoàn toàn vô
ích. Chỉ ngồi đó và thở, thì vẫn cảm thấy căng thẳng và lo lắng” với 29.3%.
Điều này có thể được giải thích rằng HS có thể chưa có đủ thông tin chi tiết hoặc
hiểu biết về các phương pháp và kỹ thuật ứng phó với căng thẳng. Điều này có thể
là các em không được học, truyền dạy đầy đủ về các kỹ thuật này hoặc không có
cơ hội để thực hành chúng trong thực tế. Trong khi đó, hiểu biết về lý thuyết
và các kỹ thuật ứng phó hiệu quả như kỹ thuật thư giãn, tư duy tích cực, và
giao tiếp là điều cơ bản, làm nền tảng cho việc áp dụng chúng vào thực tế để ứng
phó với căng thẳng
Kết quả phỏng vấn cho thấy đa số HS được
hỏi chưa có ý thức rõ ràng về việc phải thực hiện các hoạt động ứng phó bài bản
hoặc đơn giản là có sự chuẩn bị. Những hành động ứng phó đều mang tính bản năng
và xuất phát từ kinh nghiệm “thử và sai” của các em. Đơn cử như câu trả lời của
HS N.T.C lớp 11: “Khi em cảm thấy căng thẳng, em sẽ xem một bộ phim yêu
thích, nghe nhạc nhẹ là hết áp lực.” HS T.T.L cùng lớp chia sẻ thêm: “Em
thì tìm người để tâm sự nổi buồn hay lo của mình, nó giúp em cảm thấy nhẹ nhàng
hơn” HS N.V.T thì khẳng định: “Em sẽ suy nghĩ tích cực, tự nói với bản
thân rằng em sẽ vượt qua mọi khó khăn, chuyện gì cũng có cách giải quyết”
và một số HS khác bày tỏ quan điểm ủng hộ việc sử dụng các chất kích thích như
trà sữa, cà phê, kẹo ngọt, socola,… giúp tập trung và giảm căng thẳng.
Các nội dung như “Những tình huống gây
căng thẳng”, “Các tác nhân gây căng thẳng phổ biến” và “Những biểu hiện và phản
ứng của cơ thể” có điểm trung bình cao hơn tương đối ổn định (ĐTB=2.13 – 2.14
điểm). Điều này cho thấy HS có một nhận thức cơ bản về căng thẳng. Theo thống
kê kết quả xử lý tình huống (tương ứng tình huống 1) về nhận diện nguy cơ căng
thẳng, đa số HS với tỷ lệ 41.70% lựa chọn đúng phương án biểu hiện trọn vẹn của
nhận thức về các vấn đề gây căng thẳng và 30.97% HS lựa chọn đúng ít nhất một vấn
đề có nguy cơ gây căng thẳng trong tình huống. Điều này cho thấy HS THPT đã cơ
bản xác định được những tình huống có nguy cơ gây căng thẳng cho bản thân, những
tác nhân cơ bản và biết được những biểu hiện của cơ thể khi căng thẳng. Xét về
những nội dung cụ thể của hoạt động nhận thức này, HS cần nhận biết những tình
huống tiềm ẩn nguy cơ gây căng thẳng trong học tập và mối quan hệ xã hội, như
thi cử, bài kiểm tra, bài tập lớn, thuyết trình, cãi vã với bạn bè, mâu thuẫn với
người yêu, và vấn đề với giáo viên
Nhìn chung, kết quả cho thấy HS THPT có
nhận thức cơ bản về căng thẳng (vấn đề, tác nhân, biểu hiện cơ thể) nhưng còn hạn
chế trong hiểu biết về các kỹ thuật cụ thể để ứng phó cũng như còn xem nhẹ vai
trò của việc ứng phó có kế hoạch. Do đó, cần tập trung nâng cao nhận thức cho HS
về vai trò của việc thực hiện các chiến lược ứng phó và các phương pháp, kỹ thuật
ứng phó với căng thẳng cụ thể.
2. Đánh giá thực trạng năng lực trên khía cạnh thái độ
Bảng 3. Thực trạng NLUP với căng thẳng trên
khía cạnh thái độ
Các nội dung
của thái độ |
N |
ĐTB |
ĐLC |
Đón nhận/chấp nhận sự xuất hiện của căng thẳng |
410 |
2.14 |
0.541 |
Chủ động học tập và xây dựng mối quan hệ tích cực |
410 |
2.11 |
0.463 |
Tự giác tìm hiểu về căng thẳng |
410 |
2.07 |
0.506 |
Bình tĩnh và cởi mở trong khi tìm kiếm giải pháp ứng
phó |
410 |
2.05 |
0.496 |
Kiên trì trước những khó khăn khi ứng phó với căng thẳng |
410 |
2.10 |
0.488 |
ĐTB chung |
410 |
2.09 |
Nhìn chung trong 5 nội dung về thái độ
liên quan đến NLUP với căng thẳng, điểm trung bình chung là 2.09/3 điểm tương ứng
với mức năng lực trung bình. Điều này cho thấy thái độ của HS đối với việc ứng
phó với căng thẳng còn hạn chế.
Các nội dung về thái độ có điểm trung
bình thấp nhất là “Bình tĩnh và cởi mở trong khi tìm kiếm giải pháp ứng phó”
(ĐTB=2.05 điểm) và “Tự giác tìm hiểu về căng thẳng” (ĐTB=2.07 điểm). Điều này
cho thấy HS thiếu thái độ tích cực trong việc tìm hiểu và ứng phó với căng thẳng.
Trong khi đó, thái độ bình tĩnh, cởi mở và kiên trì là cần thiết để giúp HS tìm
ra giải pháp phù hợp khi đối mặt với căng thẳng
Thực tế khi phỏng vấn HS cũng thể hiện
thái độ tương tự, đa số HS bày tỏ thái độ thiếu chủ động hay thiếu “tâm thế
phòng bị” trước các vấn đề căng thẳng trong học tập và giao tiếp. HS N.T.H.G lớp
12: “Khi cảm thấy căng thẳng khi học bài hoặc cãi nhau với ai đó em thường
tránh xa chỗ đó (hoàn cảnh) mọi thứ sẽ tự giải quyết”. HS N.V.T lớp 12 thì
thể hiện được sự chấp nhận rằng căng thẳng là hiển nhiên nhưng thể hiện thái độ
dửng dưng: “Làm gì có gì đó quan trọng đến mức phải mất thời gian để tìm hiểu.
Quan trọng nhất là giữ tinh thần lạc quan và không để bản thân bị ảnh hưởng quá
nhiều, [căng thẳng] tự nhiên biến mất”. HS L.T.N lớp 12 cho rằng: “Nếu
thấy mình không thể kiểm soát được tình hình áp lực bản thân, em chỉ làm những
điều như chơi game hoặc lướt tiktok sẽ làm em vui mà quên đi áp lực” Những HS
khác được phỏng vấn đều thể hiện rằng bản thân chưa từng hoặc không tự giác đặt
câu hỏi về tại sao mình cảm thấy căng thẳng? hoặc làm thế nào để cải thiện tình
hình? Và chỉ dừng ở mức độ: “Có lẽ em cần tìm hiểu thêm về nguyên nhân và hậu
quả của căng thẳng để có những giải pháp tích cực hơn” HS vẫn chưa thể hiện
được thái độ tích cực và chủ động trong giải quyết căng thẳng.
Bài tập tình huống (tương ứng tình huống
3) bên cạnh những HS lựa chọn phương án thể hiện thái độ chủ động giải quyết vấn
đề gây ra căng thẳng, thì số lượng lớn HS chưa xác định được cần phải chủ động
giải quyết vấn đề. Có đến 35.65% HS lựa chọn cách ứng xử thể hiện thái độ cho rằng
tình huống xảy ra do lỗi tất cả của một phía và phía còn lại không có trách nhiệm
phải xử lý vấn đề gây ra căng thẳng giữa đôi bên, thậm chí đi đến kết thúc cho
mối quan hệ “nếu đã là bạn thân mà giận nhau vì những việc đơn giản như thế
thì không nên tiếp tục làm bạn” – đây là một thái độ không nên và không phù
hợp khi xử lý các vấn đề gây ra căng thẳng trong mối quan hệ. Cũng có đến
29.92% HS lựa chọn phương án thể hiện được thái độ chủ động giải quyết vấn đề
căng thẳng, nhưng lại theo hướng “đề huề”, “dĩ hoà di quý” mà “nếu đã là bạn
thân thì sẽ bỏ qua cho nhau” – cách né tránh vấn đề gây ra căng thẳng là một
thái độ ứng phó không phù hợp trong đại đa số hoàn cảnh.
Các nội dung còn lại về thái độ đều có
điểm trung bình khá thấp, trong khoảng 2.05 – 2.14 điểm thuộc khoảng tiệm cận
dưới của mức trung bình. Điều này cho thấy thái độ của HS đối với việc ứng phó
với căng thẳng nói chung là chưa tích cực. Trong khi đó, nhiều nghiên cứu liên
quan đã chỉ ra rằng thái độ chủ động trong học tập và xây dựng mối quan hệ tích
cực có liên quan tới việc giảm căng thẳng và nâng cao hiệu quả học tập (Lê Thị
Thanh Thuỷ, 2009; Nguyễn Thị Hạnh, 2016). Khi phỏng vấn, các HS cũng đánh giá cao
vai trò của bạn bè trong việc hỗ trợ giảm thiểu căng thẳng và áp lực trong học
tập.
Nhìn chung, kết quả cho thấy HS THPT có
những hạn chế về thái độ tích cực đối với việc ứng phó với căng thẳng. Cần tập
trung nâng cao thái độ tự giác, sự chủ động và tính kiên trì của HS trong việc
đối mặt và giải quyết căng thẳng.
3. Đánh giá thực trạng năng lực trên khía cạnh hành vi
Bảng 4. Thực trạng NLUP với căng thẳng trên
khía cạnh hành vi
Các nội dung
của hành vi |
N |
ĐTB |
ĐLC |
Sử dụng các kỹ thuật tự giải tỏa căng thẳng như thở đều,
thực hành chánh niệm hoặc tư duy tích cực |
410 |
1.99 |
0.441 |
Thay đổi sở thích, thói quen và các hoạt động học tập
nhằm cải thiện kiến thức và năng lực |
410 |
2.03 |
0.451 |
Sắp xếp thời gian học tập và sinh hoạt hợp lý |
410 |
2.03 |
0.489 |
Rèn luyện năng lực giao tiếp ứng xử hiệu quả |
410 |
2.03 |
0.458 |
Nhờ sự hỗ trợ hiệu quả từ gia đình, bạn bè, giáo viên
để ứng phó với căng thẳng. |
410 |
1.88 |
0.496 |
ĐTB chung |
410 |
1.99 |
Trong số các biểu hiện cụ thể về hành vi
liên quan đến NLUP với căng thẳng, điểm trung bình chung là 1.99/3.00 điểm cho
thấy khả năng thực hiện các hành vi ứng phó với căng thẳng của HS còn hạn chế, ở
mức trung bình.
Biểu hiện có điểm trung bình thấp nhất
là “Nhờ sự hỗ trợ hiệu quả từ gia đình, bạn bè, giáo viên để ứng phó với căng
thẳng” (ĐTB=1.88 điểm). Điều này cho thấy HS còn thiếu hoặc không thực sự nhờ
được sự hỗ trợ cần thiết từ môi trường xung quanh để có thể ứng phó hiệu quả với
căng thẳng. Trong khi đó, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc rèn luyện các năng
lực học tập, quản lý thời gian, giao tiếp, và nhờ sự hỗ trợ từ môi trường xung
quanh có thể giúp HS ứng phó tốt hơn với căng thẳng trong học tập và các mối
quan hệ
Kết quả phỏng vấn một mặt thể hiện được
nguồn lực có sẵn trong việc hỗ trợ HS ứng phó với căng thẳng, một mặt lại cho
thấy HS sử dụng chưa hiệu quả nguồn lực này. HS lớp 12 cho biết: “Em thấy
mìn may mắn vì có gia đình yên ấm, mỗi lúc cảm thấy căng thẳng em thường chia sẻ
với bố mẹ và họ luôn lắng nghe em”. HS lớp 10 chia sẻ: “Em thích Cô T.V
dạy Toán, em nhớ có một lần khi em bị quê mặt khi tự tin lên giải đề cho lớp mà
làm bị sai, sửa hoài không ra, cô đã không làm em mất mặt mà còn giải thích chỗ
hóc búa của đề và động viên em”. HS lớp 11 chia sẻ: “Lớp trưởng là thằng
bạn duy nhất trong lớp đối với em, vì chỉ có nó là không body-shaming em thôi”…
Các HS khác thể hiện sự khó khăn trong việc nhờ hỗ trợ khi căng thẳng. HS lớp
12 cho biết: “Ba mẹ em rất bận rộn, em học hành gì ba mẹ em đâu có biết, em
xin tiền thì mới hỏi đến là để làm gì thôi. Nên em có áp lực gì hay chuyện gì
khó cũng không hỏi được, đành thôi vậy”. HS lớp 10 cho biết: “Mấy thầy
cô lạ em không dám hỏi, có nhiều thầy cô nghiêm khắc lắm làm em sợ”. HS lớp
11 cho biết: “Chỉ có mình mới thực sự hiểu được bản thân mình muốn gì, cần
gì và đang như thế nào. Chứ người khác làm sao mà hiểu được, bạn bè thân đến mấy
cũng vậy thôi ạ”.
Các biểu hiện về hành vi còn lại đều có
điểm trung bình khá thấp, dao động trong khoảng ĐTB từ 1.88 – 2.03 điểm. Điều
này cho thấy khả năng thực hiện các hành vi cụ thể để ứng phó với căng thẳng của
HS nói chung là còn hạn chế, đây là những nội dung quan trọng cần rèn luyện cho
các em khi thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực này. Vì thực tế cho thấy:
- Về sử dụng các kỹ thuật tự giải tỏa
căng thẳng (ĐTB=1.99 điểm): HS còn hạn chế trong việc vận dụng các kỹ thuật như
thở đều, thiền, tập trung vào cảm giác cơ thể hay tư duy tích cực để giải tỏa
căng thẳng khi cần thiết.
- Về thay đổi sở thích, thói quen và hoạt
động học tập (ĐTB=2.03 điểm): HS còn hạn chế trong việc chủ động thay đổi thói
quen học tập để cải thiện kiến thức, năng lực cần thiết để đối mặt với các thử
thách trong học tập.
- Về sắp xếp thời gian học tập và sinh
hoạt (ĐTB=2.03 điểm): HS còn hạn chế trong năng lực sắp xếp thời gian biểu hợp
lý để cân bằng các hoạt động học tập và giải trí.
- Về năng lực giao tiếp ứng xử (ĐTB=2.03
điểm): HS còn hạn chế trong khả năng ứng xử tôn trọng, động viên và giao tiếp
hiệu quả để tránh xung đột trong các mối quan hệ.
Nhìn chung, kết quả cho thấy HS THPT còn
hạn chế trong khả năng vận dụng các hành vi cụ thể để ứng phó hiệu quả với căng
thẳng. Cần tập trung giúp HS thực hành và vận dụng tốt hơn các năng lực và hành
vi ứng phó với căng thẳng.
Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng NLUP
với căng thẳng của HS THPT trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đạt mức trung
bình. Cụ thể, kết quả khảo sát 410 HS căng thẳng đã cho thấy điểm số NLUP với
căng thẳng trên cả 03 khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi đều nằm trong khoảng
từ 1.67 đến 2.33 điểm.
Trong đó, khía cạnh nhận thức có mức độ
cao nhất, cho thấy HS đã có hiểu biết nhất định về căng thẳng. Tuy nhiên, các
em vẫn còn hạn chế trong việc hiểu rõ các phương pháp và kỹ thuật ứng phó cụ thể.
Ở khía cạnh thái độ, HS cũng chưa thể hiện được sự chủ động và tích cực trong ứng
phó với căng thẳng. Khía cạnh hành vi là thấp nhất, cho thấy các em gặp nhiều
khó khăn trong áp dụng các năng lực và hành vi ứng phó vào thực tiễn.
Như vậy, cần có các giải pháp cụ thể để nâng cao NLUP với căng thẳng cho HS, đặc biệt chú trọng đến việc trang bị kiến thức về các phương pháp ứng phó và rèn luyện khả năng áp dụng chúng vào thực tế để giúp các em ứng phó tốt hơn với căng thẳng trong cuộc sống. Kết quả nghiên cứu mang ý nghĩa thực tiễn cao, có thể làm cơ sở cho công tác xây dựng chương trình và tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao năng lực quan trọng này cho HS trong thời gian tới.
TRẦN VĂN TOẢN (2023)
tamlyhoc.org
Tham khảo
- Đỗ Thị Lệ Hằng. (2013). Căng thẳng của học sinh trung học phổ thông. Học viện KHXH - Viện hàn lâm KHXH Việt Nam.
- Đỗ Văn Đoạt. (2013). Năng lực ứng phó với stress trong hoạt động học tập theo tính chỉ của sinh viên Đại học Sư phạm. Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học. Học viện KHXH - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
- Lê Thị Thanh Thuỷ. (2009). Stress trong học tập và cách ứng phó của học sinh cuối cấp trung học phổ thông. Tạp chí Tâm lý học, số 4 (121), 22.
- Nguyễn Diệu Thảo Nguyên. (2009). Năng lực ứng phó với những khó khăn trong gia đình của học sinh THPT Thành phố Huế. Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học. ĐHSP Huế.
- Nguyễn Thị Hạnh. (2016). Mối quan hệ giữa áp lực học tập và khả năng ứng phó với căng thẳng của sinh viên đại học. Tạp chí Tâm lý học, 43(1), 11-26.